Thứ 3, Ngày 12 / 04 / 2022
Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Phan Đăng Lưu Người cộng sản kiên trung, bất khuất[i]
Lưu Văn Dũng -
Phó Ban Tuyên giáo ĐUK
Ðồng chí Phan Đăng Lưu sinh ngày 05/5/1902 trong một gia đình nhà nho yêu nước tại xã Tràng Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, từ rất sớm đồng chí được giáo dục về truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương nên ấp ủ hoài bão cứu dân, cứu nước.
Đồng chí Phan Đăng Lưu (1902-1941)
Năm 1924, tốt nghiệp Trường Canh nông thực hành ở Tuyên Quang với tấm bằng hạng ưu, Phan Đăng Lưu được làm nhân viên tập sự tại Sở Canh nông Bắc Kỳ. Ngày 10/10/1924, đồng chí đến nhận việc tại Trại nuôi tằm Thanh Ba (tỉnh Phú Thọ) và một năm sau được chuyển về Sở Canh nông Nghệ An. Là một thanh niên sớm có tư tưởng chống thực dân Pháp xâm lược, Phan Đăng Lưu nhanh chóng bắt liên lạc với các thành viên trong Hội Phục Việt và tích cực tham gia các hoạt động yêu nước ở Vinh (Nghệ An). Đồng chí tìm đọc và phổ biến sách báo tiến bộ, bàn luận thời cuộc với những người yêu nước và ký tên vào bản yêu sách đòi thực dân Pháp trả lại tự do cho nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
Tháng 2/1928, Phan Đăng Lưu được kết nạp vào Hội Phục Việt (lúc này hội đổi tên là Hưng Nam, sau đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng). Từ một công chức, đồng chí đã trở thành nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp trong tổ chức Tân Việt, được bầu làm Ủy viên Thường vụ của tổ chức này (tháng 7/1928). Cuối tháng 9/1928, Phan Đăng Lưu được Tổng bộ Tân Việt cử sang Quảng Châu, Trung Quốc tìm cách hợp nhất Tân Việt với Thanh Niên, nhưng chuyến đi không thành công. Trước tình hình trong nước hình thành 2 tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng cùng hoạt động, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, gây hậu quả xấu cho cách mạng, tháng 9/1929, Tổng bộ Tân Việt lại cử Phan Đăng Lưu sang Quảng Châu lần thứ hai. Khi đang ở Hải Phòng để chuẩn bị sang Trung Quốc, do có kẻ phản bội chỉ điểm, Phan Đăng Lưu bị mật thám bắt đưa về giam ở nhà lao Vinh và bị Tòa Nam triều Nghệ An kết án 7 năm tù giam, đày lên nhà tù Buôn Ma Thuột - một trong những nhà tù, nhà đày khắc nghiệt nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương. Đồng chí Phan Đăng Lưu bị giam cầm, tra tấn dã man, nhưng vẫn kiên trì, bền bỉ đấu tranh. Cũng chính tại đây, đồng chí được chi bộ Đảng kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và tham gia Ban lãnh đạo nhà tù. Đồng chí triệt để lợi dụng mọi cơ hội để tuyên truyền trong bạn tù chính trị; làm tờ báo bí mật "Doãn Đê tuần báo" trong nhà tù (tuần báo của người Kinh và người Ê Đê), tuyên truyền, giác ngộ sự đoàn kết giữa người Kinh, binh lính và đồng bào Ê Đê. Đồng chí tham gia lãnh đạo các cuộc đấu tranh trong nhà tù đòi quyền lợi cho tù chính trị; đồng thời viết nhiều bài gửi ra bên ngoài tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở nhà tù Buôn Ma Thuột.
Giữa năm 1936, phong trào đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ và thả tù chính trị dấy lên ở Pháp và Đông Dương. Thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải thả một số tù chính trị, trong đó có Phan Đăng Lưu. Ra tù, đồng chí về hoạt động tại Huế trong sự kiểm soát của mật thám Pháp.
Tháng 3/1938, Xứ ủy Trung Kỳ được thành lập lại, đồng chí Phan Đăng Lưu được bầu vào Xứ ủy Trung Kỳ và Ủy viên Ban Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng, phụ trách hoạt động công khai ở Huế, đóng góp tích cực vào phong trào báo chí và cuộc vận động Đông Dương đại hội. Đồng chí đã vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng về không tẩy chay tuyển cử mà tham gia tuyển cử. Trên cơ sở đó, đồng chí Phan Đăng Lưu đã xây dựng bản chương trình hành động cụ thể, thiết thực; thảo luận thống nhất việc chọn người ra tranh cử có cả đảng viên và cảm tình của Đảng; làm thất bại âm mưu, hành động của chính quyền thực dân và tay sai.
Cuối năm 1939, Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ. Đồng chí Phan Đăng Lưu được Trung ương triệu tập vào Nam Kỳ hoạt động và đã góp phần tích cực vào việc vạch đường lối, sách lược, chuyển hướng cách mạng của Đảng. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu (từ ngày 6 đến ngày 8/11/1939), đồng chí được Trung ương phân công phụ trách phong trào các tỉnh Nam Kỳ. Cùng Xứ ủy Nam Kỳ, đồng chí đã góp phần quan trọng và tích cực đưa phong trào cách mạng Nam Kỳ phát triển lên một bước mới.
Năm 1940 là thời điểm hết sức khó khăn đối với cách mạng nước ta, bởi lẽ gần như toàn bộ các đồng chí BCH Trung ương Đảng bị bắt và bị giết hại, chỉ còn một mình đồng chí Phan Đăng Lưu hoạt động trong nước. Nhiều chỉ thị của đồng chí, nhân danh BCH Trung ương, được thi hành trong Đảng trên toàn quốc, nhằm vận dụng thời cơ, siết chặt kỷ luật, củng cố tổ chức đi vào hoạt động bí mật và vận dụng sáng tạo các phương pháp, hình thức đấu tranh cho phù hợp với giai đoạn chuyển hướng chỉ đạo cách mạng trên tinh thần đặt yêu cầu “dân tộc giải phóng” lên hàng đầu, đặc biệt là chuẩn bị xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu của Đảng…
Tháng 7/1940, với tư cách là đại diện của Trung ương ở Nam Kỳ, đồng chí Phan Đăng Lưu dự Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ bàn về kế hoạch khởi nghĩa của xứ ủy. Với tầm nhìn toàn cuộc về thời cơ khởi nghĩa, đồng chí đã chỉ đạo tạm hoãn cuộc khởi nghĩa chờ “xin chỉ thị của Trung ương”. Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ đã nhất trí với ý kiến chỉ đạo của đồng chí Phan Đăng Lưu. Đề xuất này cũng có nghĩa là trước đó đồng chí đã cân nhắc kỹ và tự đặt lên vai mình trọng trách phải tổ chức tái lập BCH Trung ương, không phải ở Nam Kỳ mà phải ở Bắc Kỳ.
Tạm trì hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, đồng chí Phan Đăng Lưu bí mật bắt tay ngay vào chuẩn bị cho Hội nghị tái lập BCH Trung ương Đảng. Sau 3 tháng chuẩn bị, vào giữa tháng 10/1940, đồng chí bí mật rời Nam Kỳ ra gặp Xứ ủy Trung Kỳ và Bắc Kỳ, họp và cùng với Xứ ủy Bắc Kỳ thống nhất tổ chức Hội nghị tái lập BCH Trung ương (được gọi là Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ bảy).
Từ ngày 6 đến 9/11/1940, tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), Hội nghị Trung ương lần thứ bảy của Đảng đã được nhóm họp do đồng chí Phan Đăng Lưu chủ trì. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời được thành lập gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phan Đăng Lưu, do đồng chí Trường Chinh làm quyền Tổng Bí thư. Hội nghị cũng quyết định chắp mối liên lạc với Quốc tế Cộng sản và bộ phận của Đảng ở nước ngoài. Nghị quyết Hội nghị Trung ương tiếp tục thực hiện đường lối do Hội nghị Trung ương lần thứ sáu của Đảng đề ra, nhằm tích cực chuẩn bị mọi mặt, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành lại non sông đất nước khi thời cơ xuất hiện do diễn biến của chiến tranh thế giới và tình hình trong nước tạo ra; trong đó có quyết định hoãn cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ và giao cho Phan Đăng Lưu trở lại Nam Kỳ truyền đạt quyết định đó cho Xứ ủy Trung Kỳ và Nam Kỳ.
Về đến Sài Gòn tối 22/11/1940, chưa kịp truyền đạt chỉ thị của Trung ương thì đồng chí Phan Đăng Lưu bị mật thám Pháp bắt. Trong đêm đó, đồng chí Tạ Uyên và nhiều người trong xứ ủy, cấp ủy các cấp cũng bị địch bắt. Cơ quan đầu não lãnh đạo khởi nghĩa không còn. Tuy nhiên, lệnh khởi nghĩa đã truyền đến các địa phương trong toàn xứ, đêm 22/11/1940, nhân dân đã nhất tề đứng lên khởi nghĩa ở 19/22 tỉnh, thành phố từ Biên Hòa đến Cà Mau.
Tòa án binh của chính quyền thực dân Pháp ở Sài Gòn trong các phiên xử ngày 25/3/1941 và ngày 3/4/1941 đã tuyên án tử hình đồng chí Phan Đăng Lưu.
Ngày 24/5/1941, tại Bà Ðiểm (Hóc Môn), trước mũi súng quân thù, đồng chí Phan Ðăng Lưu cùng các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần đã hiên ngang bước ra pháp trường trong dũng khí của người cách mạng kiên trung và niềm tin tất thắng của dân tộc.
Khi bị tuyên án tử hình, đồng chí Phan Đăng Lưu vẫn bình tĩnh, kiên định, tỏ rõ thái độ của người cộng sản kiên trung và khẳng khái: "Tôi không sợ chết… Nếu còn sống, nhất định tôi sẽ tìm cách vượt ngục để về hoạt động cách mạng".
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, trải qua nhiều giai đoạn khó khăn của cách mạng, đồng chí Phan Đăng Lưu luôn tỏ rõ là một người cộng sản khí phách, kiên trung, thủy chung với đồng chí, đồng bào, hiên ngang, trung với nước, hiếu với dân. Đồng chí là một tấm gương sáng ngời về sự trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, với con đường mà Đảng và của Bác Hồ đã chọn. Đồng chí Phan đăng Lưu còn là tấm gương về tinh thần say sưa học tập, để có tri thức phục vụ cách mạng; về sự quan tâm đào tạo thế hệ trẻ và bồi dưỡng tri thức cho đồng bào, đồng chí, sử dụng triệt để các công cụ của tri thức, trí tuệ vào hoạt động, hoạch định đường lối và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Đồng chí Phan Đăng Lưu mãi mãi là tấm gương mẫu mực về phẩm chất của người cộng sản cho các thế hệ noi theo.
[i] Tài liệu tham khảo: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản việt Nam, tập I – Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam (1911-1929), Viện Lịch sử Đảng trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam tập II - Đảng lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền và thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1930-1945).